Xúc Tiến Cuc Đu Tranh
(Bài 048)
Gene Sharp
Chuyển ngữ: Tiểu Thạch Nguyễn Văn Thái, Ph.D.

Vai trò của một kế hoạch chiến lược

Những trường hợp của đấu tranh bất bạo động mô tả trong các chương trước đây của cuốn sách này bắt đầu bằng nhiều cách khác nhau. Hầu như là không có ngoại lệ, những trường hợp này đều bắt đầu mà không có một kế hoạch chiến lược cho cuộc xung đột chính yếu sắp tới. Trường hợp gần với một kế hoạch chiến lược hơn cả là trường hợp của Ấn Độ năm 1930-1931, mặc dù những yếu tố thiết kế cũng được tìm thấy ở Serbia năm 2000.

    Phương thức được trình bày trong sách này là một phương thức có chủ ý hơn. Phương thức này dự tính phân tích và hoạch định chiến lược kĩ lưỡng trước khi cuộc đấu tranh bắt đầu. Việc khởi động có chủ ý cho một cuộc đấu tranh có thiết kế đi trước sẽ có chiều hướng gia tăng xác suất thành công của cuộc đấu tranh. Lập kế hoạch sẵn trước cũng có thể giảm bớt, nhưng không loại bỏ được, khả năng tổn thất nặng nề.

    Một khi cuộc đấu tranh đã bắt đầu, thì nó sẽ không còn ở trạng thái tĩnh nữa. Tương quan lực lượng sẽ biến đổi, đôi khi rất nhanh chóng. Mặc dù nhóm đấu tranh bất bạo động phải luôn luôn cố nắm giữ sáng kiến trong cuộc đấu tranh, nhưng đà tiến có thể thỉnh thoảng tranh thủ được hay bị mất đi. Những khó khăn không tiên đoán trước được và những trở lực có thể, và có  lẽ sẽ, xẩy ra.

    Những người lập kế hoạch và lãnh đạo chiến lược của nhóm đấu tranh bất bạo động phải cố tiên đoán những thay đổi trong hoàn cảnh xung đột và phải được chuẩn bị để xét định những thay đổi này trong suốt thời gian của cuộc đấu tranh. Những thay đổi này có thể đưa đến kết quả là nhu cầu thay đổi chiến thuật cho việc thực thi những chiến lược của những chiến dịch hiện hành. Những thay đổi trong hoàn cảnh xung đột cũng sẽ quan trọng cho việc tiếp tục hoạch định những kế hoạch chiến lược của những chiến dịch tương lai sắp đến trong phạm vi đại chiến lược. Trong một vài trường hợp hiếm hoi, những chiến lược cho những chiến dịch hiện có cần phải được thay đổi nếu đã được xác quyết là những trở lực trong cuộc đấu tranh là do thiết kế chiến lược yếu kém chứ không phải do sự thiếu sót trong việc thực thi gây nên.

    Trong bài này, chúng tôi sẽ cống hiến một vài ý nghĩ có thể giúp hướng dẫn những người đối kháng bất bạo động về những vấn đề này trong khi cuộc đấu tranh đang tiến hành.

Chuẩn bị dân chúng cho cuộc đấu tranh

Hiệu lực của đấu tranh bất bạo động có thể được tăng lên một cách đáng kể nếu một số sinh hoạt được thực hiện trước khi sự xung đột bắt đầu. Những sinh hoạt này có thể bao gồm cải tiến bối cảnh xã hội cho cuộc đấu tranh sắp tới, phổ biến kiến thức về đấu tranh bất bạo động cho những người tham gia trong tương lai, tăng sức mạnh cho các nhóm và cơ chế độc lập, và tăng cường khả năng của những người đối kháng trong việc áp dụng kĩ thuật này cho được khéo léo.

    Một bước sơ khởi quan trọng trong việc chuẩn bị tập thể dân chúng cho cuộc đấu tranh sau này là phổ biến quan niệm đơn giản về bất hợp tác, và một ít hiểu biết cơ bản về kĩ thuật đấu tranh bất bạo động. Điều quan trọng là cần xác định kiến thức về đấu tranh bất bạo động của dân chúng, của những người đối kháng bất bạo động có thể có sau này, sâu và rộng đến bao nhiêu. Đối với một số thành phần của dân chúng, có thể đòi hỏi cần phải cắt nghĩa đầy đủ về đấu tranh bất bạo động. Ví dụ, cần phải nhấn mạnh thêm về vai trò của bất hợp tác và sự công nhận là bạo động không có một vai trò nào trong cuộc đấu tranh này và cần phải được loại bỏ. Nhiều phương tiện truyền thông có thể được sử dụng cho mục đích này, gồm có truyền thanh, các băng nhựa thính thị, truyền đơn, các tập sách nhỏ, sách, hoạt hoạ, và truyện.

    Thẩm định xem những kĩ năng nào sẽ phải được cần đến trong thời gian các chiến dịch cá biệt trong tương lai, và những người đối kháng mong đợi đã có sẵn những kĩ năng này hay chưa. Nếu chưa, thì những chuẩn bị nhằm đào tạo các kĩ năng này sẽ là một công tác cần thiết.

    Phổ biến ý niệm về những chiến dịch được chia thành giai đoạn với những mục tiêu giới hạn, được xúc tiến nhằm vừa tranh thủ những mục tiêu vừa tăng sức mạnh cho dân chúng và xã hội đang bị nô thuộc, đồng thời làm suy yếu những sự kiểm soát của chế độ áp bức, cũng sẽ là một điều quan trọng. Dân chúng cần phải trở nên quen thuộc với nhu cầu cần thực hiện những nỗ lực lặp đi lặp lại liên tục mà không trông đợi phải có kết quả ngay tức khắc.

    Trong những chiến dịch được chuẩn bị đàng hoàng, cần phải có những chỉ dẫn rõ ràng phát ra cho tập thể dân chúng, và cho các nhóm đặc biệt được yêu cầu thi hành những hành động đối kháng và thách thức rõ rệt theo những lề lối có kỉ luật. Những hướng dẫn về các loại hành vi đối kháng cụ thể có thể được quyết định trước khi một cơn khủng hoảng xảy ra (như một vụ đảo chánh, chẳng hạn), kèm theo các chỉ dẫn cho những trường hợp phòng hờ. Những chỉ dẫn này có thể bao gồm các vai trò đối kháng của các nhóm khác nhau trong dân chúng và của các cơ chế trong xã hội.

    Kinh nghiệm cũng xác định là, ngay cả trong những hệ thống toàn trị cực đoan nhất, các nhà độc tài cũng không thể cắt đứt hoàn toàn tất cả mọi thông tin giữa những người đối kháng và giữa tập thể dân chúng. Những tờ tin tức, những tập sách mỏng, và các sách bất hợp pháp đã từng được ấn hành và phân phát trong các thời chiếm đóng của Đức Quốc Xã và nền cai trị của Cộng Sản.   

Đối diện với khó khăn: chướng ngại hay là thách đố?

Cần phải chờ đợi những khó khăn sẽ xảy ra trong thời gian xung đột. Cách thức những người đối kháng nhìn xem những khó khăn này và phản ứng như thế nào là điều quan trọng. Cả những người đối kháng lẫn những người lãnh đạo cần phải xem những khó khăn được xác định như là những thách đố, chứ không phải là những chướng ngại không thể vượt qua được. Nếu không có được thái độ này, thì không thể nào vượt qua những khó khăn này được.

    Do đó học làm sao để xét định những khó khăn nghiêm trọng và hoạch định những phương cách hữu hiệu để giải quyết những khó khăn này rất quan trọng. Làm như vậy, những khó khăn này có thể vượt qua, bỏ băng, hay loại bỏ đi được, và cuộc đấu tranh có thể vẫn tiến hành trong việc tranh thủ mục tiêu. Cho nên khôn ngoan là nên cố tính trước những khó khăn như thế suốt thời gian cuộc đấu tranh và tìm giải pháp cho những khó khăn đó trước khi những khó khăn này xảy ra.

Duy trì đà tiến và sáng kiến 

Việc phong trào đối kháng duy trì được sáng kiến và đà tiến dũng mãnh suốt thời gian xung đột để việc áp dụng các chiến lược đã được chấp thuận có thể tiến hành hữu hiệu và đầy sinh lực là một điều rất quan trọng. Không thực hiện được điều này sẽ làm cho phong trào bị suy yếu một cách trầm trọng. Ví dụ, một cuộc biểu tình dũng cảm, có kỉ luật, và đầy sáng tạo có thể xảy ra vào một ngày nào đó lôi cuốn được nhiều tò mò, chú ý, và hỗ trợ. Tuy nhiên, trong thời gian những tuần, những tháng tiếp theo, nếu không có những hành động đối kháng mới mẽ nào được thi hành, thì sự chú ý của công chúng sẽ tập trung vào giai đoạn thầm lặng và thụ động, chứ không phải vào cuộc biểu tình trước đó. Phần lớn tác dụng của cuộc biểu tình sẽ bị mất đi. Trái lại, duy trì được sáng kiến và sự tiến bộ tiệm tiến của phong trào đối kháng bằng những hành động phản đối hay đối kháng mới, đúng theo chiến lược đã được thiết kế, sẽ tăng sức mạnh cho cuộc đấu tranh và đóng góp vào sự thành công của phong trào.

    Phong trào đấu tranh bất bạo động chủ yếu cần phải xúc tiến những hành động tấn công, thi hành sáng kiến và duy trì sáng kiến được chừng nào hay chừng đó. Nếu phong trào giữ được khả năng đối kháng mà không thi hành sáng kiến, thì sẽ có một sự nguy hiểm nghiêm trọng là phong trào sẽ trở nên cốt yếu chỉ phản ứng mà thôi. Sự lựa chọn phải làm điều gì và làm như thế nào lúc bấy giờ sẽ được quyết định bởi những sáng kiến của đối phương, do đó đem lại cho họ những thuận lợi lớn lao. Các hoạt động phòng thủ chỉ nên được giới hạn vào những hoạt động dùng để chặn bước tiến của đối phương trong lúc những hoạt động tấn công đang được chuẩn bị. Trong khi vẫn giữ chiến lược đã được thiết kế trong trí óc, những người lãnh đạo và những chiến lược gia sẽ cần phải xét định những giải pháp nào là những giải pháp dùng để thi hành sáng kiến trong những bước tiếp theo của cuộc đấu tranh.

    Ngay cả trong trường hợp của một cuộc đấu tranh chủ yếu là phòng thủ, như là một cuộc đấu tranh chống lại sự chiếm đóng của ngoại bang, hay là một cuộc đảo chánh, những người phòng thủ cần phải có sáng kiến biến cuộc đấu tranh thành một cuộc đấu tranh do chính họ chủ động. Những người phòng thủ sẽ cần phải thiết kế những hành động tấn công nào mà họ có thể thực hiện được để bảo vệ những căn cứ tổ chức, những nguyên tắc, và khả năng hành động của mình để ép buộc sự sụp đổ hay rút lui của những kẻ tấn công.

    Một đại chiến lược khôn ngoan, cũng như những chiến lược cho những chiến dịch cá biệt, phải gồm có những kế hoạch để phát triển một phong trào càng lúc càng mạnh và thành công hơn.

    Một cuộc đấu tranh dài hạn vận hành theo một đại chiến lược có thể bao gồm nhiều chiến dịch có những mục tiêu giới hạn. Hiệu lực của cuộc đấu tranh dài hạn có thể được gia tăng, và đà tiến được duy trì, nếu cả những mục đích của chiến dịch lẫn các nhóm dân chúng được đòi hỏi chịu gánh nặng trách nhiệm xúc tiến cuộc đấu tranh được biến đổi giữa những chiến dịch tiếp nối nhau.

    Trong vài cuộc đấu tranh dài hạn, những chiến lược của chiến dịch có thể tập trung lúc này vào những vấn đề kinh tế, lúc khác vào những vấn đề tự do phát biểu, và vào lúc khác nữa thì lại vào những vấn đề tôn giáo. Những phương pháp đấu tranh rất khác nhau có thể được sử dụng trong mỗi một chiến dịch này. Mỗi chiến dịch có thể đòi hỏi những mức độ dấn thân và mạo hiểm khác nhau cho những thành phần khác nhau trong phong trào đối kháng. Ví dụ, các giáo sư có thể chịu gánh nặng về trách nhiệm và chịu đựng đàn áp trong một thời gian. Trong những giai đoạn khác, các hàng giáo phẩm, công nhân hoả xa, phóng viên báo chí, các quan toà, hay học sinh/sinh viên có thể chịu trách nhiệm chính trong việc thi hành một số hành động nhằm tranh thủ những mục tiêu rõ rệt. Sau đó, nhóm chính yếu chịu trách nhiệm đối kháng có thể được nghỉ ngơi, khi vấn đề tranh chấp chuyển hướng hay một nhóm ngành nghề hay địa phương khác được yêu cầu đóng một vai trò năng động hơn trong một chiến dịch mới.

    Nếu một kế hoạch nhằm phát triển một phong trào đối kháng càng lúc càng mạnh như thế đã được thiết kế, thì điều quan trọng là theo dõi tiến trình của cuộc đấu tranh để quyết định xem phong trào có thực sự trở nên mạnh hơn hay không. Nếu phong trào đã trở nên chủ yếu là phản ứng, hay là phần lớn chỉ hành động phòng thủ, thì cần phải có một sự thay đổi để có những hành động năng nổ hơn. Cần phải lấy những quyết định và những quyết định này phải được thực thi để làm cho cuộc đấu tranh gia tăng nghị lực, sáng kiến, và sức lực để tiến tới khả năng cao hơn trong việc tranh thủ (các) mục tiêu của cuộc đấu tranh.

Theo dõi tiến trình cuộc xung đột 

Trong suốt tiến trình của cuộc xung đột, nhiều thay đổi quan trọng có chiều hướng sẽ xẩy ra trong nhóm đối phương cũng như trong nhóm những người đối kháng, trong những mối quan hệ giữa hai nhóm, và trong những mối quan hệ của họ đối với những thành phần thứ ba. Rất quan trọng là mức độ và loại hỗ trợ mà mỗi phe tranh chấp nhận được từ những “cột trụ chống đỡ” của mình có thể tăng hay giảm. Kết quả có thể là những chuyển đổi trong hoàn cảnh xung đột tổng quát như đã được thẩm định trước kia trong lúc chuẩn bị phỏng định chiến lược, như đã được thảo luận ở Bài 042. Hoàn cảnh nguyên thuỷ sẽ không đứng yên. Nhiều nhân tố khác nhau sẽ can dự vào hoàn cảnh khi những người đối kháng áp dụng một kế hoạch chiến lược hay chiến thuật đã được lựa chọn và khi đối phương phản ứng lại. Do đó, biết được sự hỗ trợ cho mỗi phe đã thay đổi như thế nào, và hiện đang thay đổi như thế nào, và các kế hoạch cho cuộc đấu tranh bất bạo động có thực sự được áp dụng hay không và áp dụng như thế nào là một điều quan trọng.

    Những chỉ dấu quan trọng hơn về tác dụng của cuộc đấu tranh cần phải được theo dõi. Những chỉ dấu này bao gồm những thay đổi trong các nhóm đối kháng, trong tổng thể dân chúng, nơi đối phương, và ở các thành phần thứ ba. Một số câu hỏi quan trọng cần phải được đặt ra. Những thay đổi nào thuận lợi? Những thay đổi nào không thuận lợi? Các quan điểm, tinh thần, và sự tin cậy vào quân đội, vào các giới chức, và dân chúng của đối phương đã bị ảnh hưởng bởi cuộc đấu tranh như thế nào? Sự kiên quyết của những người đối kháng cho đến giờ phút này đã bị ảnh hưởng bởi cuộc đấu tranh như thế nào, và số người đối kháng đang tăng hay đang giảm? Điều gì đã xảy ra trong thời gian cuộc đấu tranh đối với khả năng đối phương kiểm soát hoàn cảnh xung đột và dân chúng đối kháng?

    Điều quan trọng là phải xác định những lí do tại sao có những thay đổi về các tương quan lực lượng, của cả hai bên. Đang có những khuynh hướng nào? Những nhân tố nào đã đóng góp vào những thay đổi này? Các diễn biến có đem lại bằng chứng là kế hoạch chiến lược nguyên thuỷ vững chãi hay không, hay là cần phải được xét lại? Những biện pháp phản công của đối thủ có được dự tính trước, do đó các phản ứng có được chuẩn bị hay không, hay là đòi hỏi những người đối kháng phải có những hành động mới? Điều này nói lên những gì về các cái lợi có thể có trong việc bắt đầu những thay đổi về các chiến thuật và các phương pháp sẽ được sử dụng, hay ngay cả về việc đánh giá chiến lược đã được lựa chọn, trong thời gian của một buổi duyệt lại trong tương lai? Cũng có thể thu thập thêm những thông tin về các nhân tố có giá trị và tạo thay đổi trong hoàn cảnh xung đột, như là việc sử dụng tuyên truyền, các nhân viên tình báo và điểm chỉ viên, những động tác của các nhân viên nòng cốt của đối phương, và các nhân tố khác nữa.

    Một trong những công tác quan trọng nhất trong việc đánh giá cuộc đấu tranh đang diễn tiến là thẩm định xem các chiến thuật và các phương pháp đối kháng được áp dụng hữu hiệu như thế nào. Điều này đặc biệt cần phải thực hiện nhất là khi những phương pháp lựa chọn đòi hỏi sự tham gia của của một số rất lớn những người đối kháng. Những thí dụ về những phương pháp này bao gồm những vụ tẩy chay kinh tế, đình công lao động, những hình  thức bất hợp tác chính trị khác nhau, và ngay cả một vài hành động có tính biểu tượng như là tuần hành phản đối hay là trưng bày công khai một số màu sắc hoặc kí hiệu biểu tượng. Nếu những phương pháp này đang được rất nhiều người áp dụng, thì chỉ sự kiện này không mà thôi cũng có giá trị truyền thông rất lớn, và có thể tạo nên một tác dụng mạnh cho cuộc đấu tranh. Ngược lại, nếu một lời kêu gọi sử dụng những phương pháp đòi hỏi sự tham gia của nhiều người nhưng chỉ nhận được một sự hưởng ứng rất nhỏ bé, thì nhược điểm của phong trào đối kháng đã bị phơi bày, đưa đến những hậu quả tiêu cực cho tương lai của cuộc đấu tranh.

    Những người lập chiến lược và những người lãnh đạo sẽ cần phải có những cách thức theo dõi các ưu và nhược điểm của chiến dịch đang diễn tiến của mình để thẩm định xem có cần phải có những bước mới nào để gia tăng hiệu lực và xác suất thành công hay không. Sự thẩm định này có thể giúp những người đối kháng có được những biện pháp (1) ngăn chặn, sửa sai, hay bù trừ cho một số biến chuyển tiêu cực, hay là (2) lấy những sáng kiến mới để tăng sức mạnh của cuộc đấu tranh, tăng cường nhóm đấu tranh, làm suy yếu đối phương, và tranh thủ thêm sự hỗ trợ của những thành phần thứ ba.

Những chuyển đổi về chiến thuật và phương pháp

Một chiến lược khôn ngoan đã được thiết kế để chỉ đạo đường hướng chính của cuộc đấu tranh của nhóm đấu tranh bất bạo động không nên được xem là có thể loại bỏ dễ dàng để theo một chiến lược khác. Tuy nhiên, những kế hoạch thực thi chiến lược đã được chấp thuận phải chịu sự thay đổi khi có những cơ hội để thúc đẩy đà tiến, hay là khi gặp phải sự chống đối nghiêm trọng không được tính trước.

    Trong lúc tình hình thay đổi và cuộc đấu tranh vẫn tiến hành, những người đối kháng có thể có những cơ hội thực hiện những hành động đã được hình dung ra trước đó nhưng chưa từng được sắp xếp vào một thời biểu nào nhất định. Nếu, sau khi thẩm định, những hành động đề nghị mới được xem là khôn ngoan, thì phong trào cần phải được chuẩn bị để tận dụng những cơ hội bất ngờ này. Tuy nhiên, những hành động này phải phù hợp với đại chiến lược đã được chấp thuận và với chiến lược của chiến dịch hiện hành.

    Phong trào cũng phải cẩn thận đừng để lệch hướng, chú tâm vào những vấn đề bên lề và có những sinh hoạt không tập trung vào chiến lược nền tảng của cuộc đấu tranh.

    Trong phạm vi của một chiến lược, có lúc có thể thực hiện những chuyển đổi theo đó những nhóm dân chúng sẽ được tín nhiệm thi hành những ứng dụng các phương pháp phản đối, bất hợp tác, hay can thiệp. Cũng có thể tạo những thay đổi khác trong việc chọn lựa những phương pháp cụ thể để áp dụng trong ngắn hạn. Những thay đổi như thế về phương pháp, hay những nhóm phương pháp, có thể được sử dụng để chuyển các trách nhiệm và nguy hiểm từ một nhóm người đối kháng này sang một nhóm người đối kháng khác có lẽ ít mệt mỏi hơn hay là có kỉ luật hơn. Những chuyển đổi về phương pháp cũng có thể được thực hiện để thay đổi loại áp lực được áp dụng cho đối phương hay để bù trừ lại các nhược điểm của nhóm đấu tranh bất bạo động. Biến đổi về chiến thuật và về phương pháp cũng có thể tăng thêm phần mới mẻ và thích thú – và thường là thêm giá trị thông tin – cho chiến dịch.

Lùi hay tiến

Nếu diễn biến của cuộc đấu tranh cho thấy là sức mạnh và khả năng của những người đối kháng khi đối diện với những trừng phạt và khốn khổ không có, thì sự kiện này cần phải được công nhận. Cần phải tìm kiếm những cách thức để sửa sai những khuyết điểm này trong lúc vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh.

    Mặt khác, nếu những nhược điểm quan trọng của đối phương được phát lộ, hay là những người đối kháng bất bạo động mạnh thế hơn là dự tính, thì thúc đẩy phong trào đối kháng và thực thi chiến lược đã được thiết kế có thể là điều khôn ngoan.

    Việc thực thi chiến lược và các chiến thuật đòi hỏi một sự nhạy cảm về các biến chuyển của tình hình xung đột. Nếu một hành động chiến thuật nào đó thành công, thì tiếp theo đó phải làm gì? Nếu một hành động chiến thuật nào đó thất bại, thì phải làm gì sau đó? Nếu hành động có giới hạn này chỉ thành công phần nào thôi, thì phải làm gì tiếp theo? Khả năng phản ứng trước những diễn biến không thấy trước, hoặc không thể thấy trước được, cần phải được phát huy thật sắc bén. Điều đặc biệt quan trọng là phải giữ vững tinh thần của những người đối kháng và các ủng hộ viên tiềm năng và tiếp tục những hành động đối kháng của họ. Nếu một hành động chiến thuật không thành công, thì cần phải thay đổi các kế hoạch. Trong một vài trường hợp, có lẽ có thể kêu gọi rút lui tạm thời để chuẩn bị cho một nỗ lực mạnh mẽ hơn trong tương lai.

    Có thể cần phải đặt thêm một số câu hỏi quan trọng. Khi nào thì nên tiếp tục những hành động hiện tại để tăng sức mạnh của phong trào đối kháng, hay là thay vì tiếp tục thì phải thay đổi những hành động này? Khi nào thì nên khởi sự những hoạt động mới và hành động mới này cần phải nhắm vào những mục tiêu cụ thể nào? Khi nào thì nên, mặc dù gặp phải trở ngại chiến thuật, cố gắng tăng sức mạnh của những người đối kháng và kiên trì với chiến lược đã lựa chọn? Làm thế nào để quyết định là nên hay không nên thẩm định lại và duyệt lại các chiến lược đã được chấp thuận?

Vẫn tranh thủ được thắng lợi dù bị trở ngại

Không phải tất cả mọi cuộc đấu tranh đều tiến hành được suôn sẻ. Những người lãnh đạo và những chiến lược gia của phong trào đối kháng cần phải được chuẩn bị để hướng dẫn trong những hoàn cảnh khi mà đối phương đã tranh thủ được những thắng lợi quan trọng và đã đạt được một vài hay tất cả các mục tiêu của họ mặc dù bị đối kháng.

    Thoái bộ không phải là những thất bại vĩnh viễn. Không dự tính trước những trường hợp phòng hờ như thế, và không có những chuẩn bị bởi những người đối kháng để giải quyết vấn đề, thì những thoái bộ và thất bại trong các chiến dịch trong phạm vi tổng thể của đại chiến lược có thể đưa đến kết quả là mất tinh thần, rối loạn, và sự sụp đổ của chiến dịch đối kháng. Trái lại, nếu có dự tính trước và có chuẩn bị thích hợp, thì những người đối kháng có thể giải quyết được những thoái bộ và xoay ngược tình hình trước khi các thoái bộ đó trở thành những thảm bại.

    Cần nên học những bài học từ các thoái bộ này. Những bài học này có thể bao gồm các cách thức cải tiến thiết kế các chiến lược, gia tăng đoàn kết giữa những người đối kháng, duy trì kỉ luật, cải tiến kĩ năng áp dụng những hành động đối kháng, và tăng khả năng tiếp tục đối kháng mặc dù gặp phải đàn áp và những khó khăn khác.

    Xác định, dựa trên cơ sở xét nghiệm những biến chuyển của phong trào và sự phân tách kĩ lưỡng các diễn biến, xem có phải những nguyên nhân của sự thoái bộ nằm trong việc lựa chọn các mục tiêu và chiến lược hay không là một điều quan trọng. Nếu không phải như vậy, và mục tiêu đã được chọn một cách khôn ngoan, và chiến lược đã được hoạch định và thiết kế giỏi, thì mục tiêu và chiến lược không nên bị loại bỏ và thay thế một cách nhẹ dạ.

    Những khó khăn trên bình diện chiến thuật không khẩn thiết phải là lí do để loại bỏ chiến lược. Ngược lại, những thay đổi có thể thích hợp ở bình diện chiến thuật. Tập thể dân chúng và nhóm đối kháng có thể đã yếu và do đó cần phải được tăng sức mạnh. Việc thực thi chiến lược và các chiến thuật có thể đã được xúc tiến một cách kém cỏi. Có thể đã có những khó khăn về tổ chức và lãnh đạo. Những người đối kháng có thể đã thiếu những phương tiện hữu hiệu để chống lại các sức mạnh và nước bước của đối phương. Trong mọi trường hợp, bản chất đích thực của các nhược điểm của phong trào đối kháng cần phải được xác định, và các sửa sai cần phải được thực hiện ở những bình diện thích hợp.

    Trong những trường hợp những mục tiêu của những chiến dịch cá biệt đã đạt được rồi, thì những thắng lợi này phải được công nhận và những người đối kháng phải được nhận lãnh công lao về những thành quả của mình. Việc công nhận và ghi ơn này sẽ giúp những người đối kháng tiếp tục thành công với những thắng lợi mới trong những giai đoạn kế tiếp của cuộc đấu tranh. 

Đưa cuộc đấu tranh đến hồi kết thúc

Không có một kĩ thuật đấu tranh nào, bạo động hay bất bạo động, có thể bảo đảm thành công trong mọi trường hợp, bất kể các điều kiện, sức mạnh và kĩ năng của những người đối kháng, và bản chất cùng hành động của đối phương. Hẳn là cần phải xét nghiệm quán triệt những điều kiện ngoại tại của cuộc đấu tranh và bản chất cũng như các khả năng của đối phương. Tuy nhiên, những nhân tố quan trọng khác trong việc quyết định kết quả của cuộc đấu tranh thường bị bỏ quên là kĩ năng, sự chuẩn bị, lòng can đảm, các chiến lược, và sự kiên quyết do những người đối kháng biểu lộ. Nếu những phẩm tính này yếu kém hoặc thiếu vắng, thì cuộc đấu tranh sẽ có chiều hướng thất bại. Nhưng nếu những khả năng này hiện hữu và có thể được tăng cường, thì những người đối kháng có cơ may thắng ngay cả những đối thủ tàn ác.

    Có ba phương cách căn bản để một cuộc đấu tranh kết thúc: thất bại, kết quả lẫn lộn, hay thành công. Những cuộc xung đột có sử dụng đấu tranh bất bạo động cũng không ngoại lệ.

Thất bại 

Bản chất của thất bại có thể mang từ dạng đơn giản là không đạt được các mục đích của cuộc đấu tranh đã tuyên bố đến sự sụp đổ toàn diện của phong trào đối kháng. Điều này cũng tương tự như thất bại trong chiến tranh quân sự, ngoại trừ sự đánh giá về đấu tranh bất bạo động còn được đo lường bằng một tiêu chuẩn khác nữa thường không được áp dụng cho chiến tranh, đó là, những mục tiêu được khẳng quyết có thực sự đã đạt được hay chưa.

    Thất bại có thể xảy ra vì không đủ sức mạnh, hay yếu kém về tổ chức, về sự kiên quyết, hay về chiến lược. Như chúng tôi đã có nói trước đây. Không có gì có thể thay thế cho sức mạnh đích thực của đấu tranh bất bạo động được.

    Những hậu quả của thất bại sẽ biến đổi. Có lúc thì phải chịu những khốn khổ về thể xác, chết chóc, lo âu về tâm thần, những tổn thất về kinh tế, tình huống tệ hại hơn, hay những câu thúc mới về luật pháp. Nếu bị xuống tinh thần và mất niềm tin vào đấu tranh bất bạo động thì những cơ hội để sử dụng kĩ thuật này, một lần nữa, có thể là nhỏ nhoi.

    Nếu sự thất bại của một cuộc đấu tranh bất bạo động tỏ ra hầu như đã chắc chắn, hay ít nhất là rất có thể xảy ra, thì những người lãnh đạo và các chiến lược gia bất bạo động sẽ cần phải có những tính toán rất cẩn thận làm thế nào để đương đầu với hoàn cảnh. Ngay cả nếu nhóm đấu tranh không thể tranh thủ được các mục tiêu của mình thì cũng không cần phải bỏ rơi những mục tiêu ấy, nếu không thì họ sẽ nhượng bộ chính danh lại cho đối phương. Những nước bước có chủ ý phải được thực hiện để bảo đảm khả năng phục hồi cuộc đấu tranh sau khi đã tái phối trí quy mô, tăng cường nội bộ, có phân tích chiến lược mới và  được chuẩn bị.

    Một phong trào đã chứng tỏ là quá sức yếu để có thể chống lại đối phương và đã tan rã thì lúc đó có rất ít khả năng để cứu vãn tình hình khỏi rơi vào thảm bại.

    Tuy nhiên, nếu sự thất bại không phải là quá mức, và mặc dù vậy, những người đối kháng và đại bộ phận quần chúng lúc bấy giờ vẫn chưa tái phối trí được sau bao nhiêu là tổn thất, thì cần phải kêu gọi tạm ngưng đấu tranh. Một nỗ lực cần phải được thực hiện để cứu vãn nhiều được chừng nào hay chừng ấy để khỏi bị rơi vào cơn khủng hoảng. Điều quan trọng là phải biết làm thế nào để rút lui một cách trật tự về một vị thế có thể cố thủ được. Vị thế này là gì sẽ biến đổi rất nhiều tuỳ theo từng hoàn cảnh và các sức mạnh của những phe tranh chấp.

    Nếu một cuộc đấu tranh nào đó đã bị đánh bại, thì điều quan trọng là phải phân tích những nhân tố nào đã đóng góp vào sự thất bại đó. Một khi các nhân tố này đã được xác định, thì cần phải xét định xem tại sao những nhân tố đó đã xảy ra, và những nhân tố đó có thể sửa đổi được hay không, và nếu được, thì bằng cách nào. Sự phân tích này phải được thực hiện một cách kĩ lưỡng và không nên có những lối cắt nghĩa đơn giản, như là “đối phương quá tàn bạo.”

    Cần phải có một nỗ lực biến hoàn cảnh khó khăn thành một giai đoạn của tái phối trí và của những chuẩn bị mới. Nếu phần nào khí thế đấu tranh vẫn còn tồn tại trong số những người đối kháng và trong dân chúng, thì điều quan trọng là phải duy trì ít nhất một vài phương tiện phản đối biểu tượng nho nhỏ và tiếp tục một ít công tác tổ chức có giới hạn. Điều này là một thực tại mà triết gia người Na-Uy Arne Nӕss gọi là “đối kháng vi mô.”1 Khi tình huống được cải thiện, thì những người lãnh đạo và các chiến lược gia còn sót lại cần phải xúc tiến các chuẩn bị cho phong trào đối kháng trong tương lai, khuyến khích dân chúng thực hiện những hành động nhỏ và ít mạo hiểm, và sau đó ngay cả khởi động những sinh hoạt phản đối và đối kháng địa phương có giới hạn để tranh thủ những mục tiêu nhỏ hơn.

    Không phải mọi thất bại đều toàn diện và vĩnh viễn. Ngay cả khi những người đối kháng trông như là đã bị đánh bại, sức mạnh của đối phương, mặc dù họ đã chiến thắng, có thể thực sự đã bị suy yếu một cách đáng kể. Trong chiến tranh quân sự, điều này được biết đến như là “chiến thắng đắt giá” (Pyrrhic victory). Ngay cả những khi mục tiêu không đạt được, những người đối kháng có thể trưởng thành trong sức mạnh tổ chức và trong kĩ năng đối kháng. Những thắng lợi như thế có thể là nền tảng cho sự gia tăng sức mạnh và hiệu lực về sau này. Tuy nhiên, có thể cần phải có một cuộc tái thẩm định cơ bản về tình hình, bao gồm cả một phỏng định chiến lược mới.

Kết quả lẫn lộn

Trên thực tế, dĩ nhiên, kết quả cuối cùng của những cuộc đấu tranh thường không phải là thành công hoàn toàn mà cũng không phải là thất bại hoàn toàn, nhưng là một sự lẫn lộn của cả hai. Trong những trường hợp như thế, nhóm đấu tranh bất bạo động sẽ phải thẩm định lại tình hình và quyết định xem cần phải làm gì để đạt được toàn bộ các mục tiêu của chiến dịch như đã dự tính từ lúc ban đầu.

    Những thắng lợi có giới hạn phải được phúc trình một cách chính xác và được thông hiểu. Những thắng lợi này không phải là những thất bại, nhưng cũng không phải là những thành công hoàn toàn. Dù sao trong một hoàn cảnh của những thắng lợi có giới hạn đối với nhóm đấu tranh bất bạo động thì có thể là đối phương cũng đã trải qua những trở ngại tương tự. Họ có thể mất tự tin và trở nên suy yếu và ít có khả năng từ chối những mục tiêu của những người đối kháng trong tương lai hơn.

    Nếu những thắng lợi từ cuộc đấu tranh ít hơn là sự mong muốn của những người đối kháng, nhưng nếu không có ai nêu lên những câu hỏi cơ bản chất vấn giá trị của chiến lược đã được lựa chọn, thì điều quan trọng là phải tiếp tục áp dụng chiến lược này, nhưng có lẽ là theo một phương cách khác. Tuy nhiên, nếu có những vấn đề quan trọng đã được khám phá trong lúc đối kháng trước đó, những vấn đề có thể được xác định là những nhân tố cản trở những thắng lợi khác trong tương lai, thì kế hoạch chiến lược trước kia có thể cần phải được xét lại.

    Không phải tất cả những thay đổi lớn đều có thể đạt được trong một cuộc đấu tranh duy nhất, và những kết cuộc do thương thảo đem lại đôi lúc cũng khôn ngoan đối với một số chiến dịch. Đôi khi, chính sự kiện thương thảo để giành thắng lợi — chứ không phải để bị tổn thất – cũng đã là một chiến thắng rồi, bởi vì nó phản ánh một tương quan lực lượng được cải tiến. Đôi khi, một cuộc ngưng chiến, một giải quyết tạm thời có thể được thực hiện mà không cần phải có những thương thảo hay là thoả hiệp.

    Những người đối kháng bất bạo động có thể thoả hiệp về những vấn đề thứ yếu, không quan trọng, nhưng không nên thoả hiệp về những vấn đề thiết yếu hay là từ bỏ những nguyên tắc hay yêu cầu căn bản. Những người đối kháng cần phải biết sự khác biệt này và không nên lấy những vấn đề thứ yếu làm những nguyên tắc căn bản hay là những mục tiêu chính yếu. Việc tranh thủ trọn vẹn những nguyên tắc hay những yêu cầu căn bản có thể được triển lại, chứ không thể bị chối bỏ.

    Giai đoạn tiếp theo sau một cuộc đình chiến, hay giải quyết tạm thời sẽ khó khăn. Giai đoạn này có thể được sử dụng bởi những người đối kháng để tái phối trí, tăng cường lập trường, hoặc củng cố những thắng lợi. Ta không nên tiếp tục đi theo con đường đã dẫn đến hưu chiến. Những chiến lược và chiến thuật mới rất quan trọng. Những hành động đầu tiên sau khi thất trận cần phải ngắn gọn, nhưng không nên bao giờ để cho đối phương quyết định những hành động tương lai của những người đối kháng. Nhóm đấu tranh không nên để mình trở nên hoàn toàn thụ động và trở lại chịu khuất phục. Những giai đoạn rút lui hay ngay cả thất bại phải được biến thành những cơ hội để phục hồi sức mạnh và chuẩn bị cho đấu tranh thuận lợi hơn. Khi đã tranh thủ được những thành công có giới hạn bằng cách tạo được những thay đổi về thái độ, về vị thế quyền lực, và về các liên hệ xã hội, thì những thành công này có chiều hướng là đích thực và lâu bền, không dễ gì lấy đi được.

    Các chiến lược gia và những người lãnh đạo sẽ cần phải thẩm định xem làm thế nào để cuộc đấu tranh của họ có thể được tăng cường để giúp cho họ có thể tiến hành từ một chiến dịch hay một cuộc đấu tranh kết thúc với những kết quả lẫn lộn, đến một chiến dịch mới có khả năng đạt được toàn bộ những mục tiêu của mình. Làm thế nào để những người đối kháng có thể phục hồi từ những mất mát kia, làm thế nào để tái phối trí, tăng sức mạnh cho dân mình, và chuẩn bị để bắt đầu lại một giai đoạn mới của cuộc đấu tranh? Những người đối kháng có thể tập trung vào một mục tiêu cụ thể dễ tấn công hơn hay không? Hay là họ có thể bành trướng các mục tiêu của mình để tận dụng những sức mạnh và cơ hội của họ vừa mới được xác nhận hay không? Chiến lược và các chiến thuật trong giai đoạn tái phối trí và phục hồi sức lực như thế sẽ thật là đặc biệt quan trọng.

Thành công

Thành công trong một chiến dịch có giới hạn, hay trong một cuộc đấu tranh bất bạo động chính yếu vận hành trên cơ sở của một đại chiến lược, cần phải được thông hiểu một cách chính xác. Thành công trong những cuộc đấu tranh bất bạo động được định nghĩa như là việc đạt được những mục tiêu quan trọng của nhóm đấu tranh. Những mục đích của những người đấu tranh đã tranh thủ được hay chưa? Đây là tất cả những gì cần thiết để tuyên bố chiến thắng, dù cho đối phương chưa chịu thừa nhận tình hình đã đổi thay.

    Như chúng ta vừa thảo luận, một vài cuộc đấu tranh bất bạo động có thể đem lại những kết quả lẫn lộn thành công và thất bại. Nhưng một cuộc đấu tranh không thể được gọi là thành công hoàn toàn, nếu chỉ có tinh thần của những người đối kháng là được nâng cao, nếu chỉ có tập thể dân chúng là được tổ chức tốt hơn và có kĩ năng đối kháng hơn, hay là nhóm đối phương chỉ bị suy yếu đi mà thôi. Những tình huống này đích thị là những thắng lợi, nhưng chưa phải là những thành công trọn vẹn.

    Khi đã có được những bước tiến quan trọng, và chiến thắng đã gần kề, thì cần phải thận trọng. Đây là một giai đoạn trọng yếu và nguy hiểm.  Nhóm đấu tranh bất bạo động có thể quá tự tin và bất cẩn. Tại điểm này, đối phương có thể có một nỗ lực tối đa để tránh khỏi phải đầu hàng. Nỗ lực cuối cùng của nhóm đấu tranh bất bạo động là nỗ lực quan trọng nhất và là nỗ lực khó khăn nhất. Các chiến dịch có thể kết thúc một cách thành công bằng nhiều cách khác nhau. Những cách này bao gồm thương thảo, đối phương chấp thuận các đòi hỏi, và sự sụp đổ của chế độ của đối phương.

    Trong một vài trường hợp, sự thoả thuận giữa những phe tranh chấp do thương thảo đem lại có thể bao gồm những mục đích do nhóm đấu tranh bất bạo động tranh thủ được. Đôi khi, những mục đích có thể được hợp thức hoá bằng một quyết định được ấn định bởi một cơ chế, một toà án chẳng hạn, không phải là một thành phần của cuộc xung đột, như đã từng xảy ra khi vụ tẩy chay xe buýt ở Montgomery, bang Alabama, năm 1956 kết thúc. Rồi cần phải xét định xem mức độ của quyết định này có phải là do tác dụng trực tiếp hay gián tiếp của đấu tranh bất bạo động hay không. Trong những trường hợp cực đoan, như là một vụ nổi dậy bất bạo động nhằm chấm dứt một nền độc tài quá khích chẳng hạn, thì thành công có thể do sự phân huỷ của chế độ áp bức đem lại. Sự phân huỷ này có thể là hiệu quả của những nguồn sức mạnh của đối phương bị suy giảm hay bị cắt đứt do bất hợp tác tập trung được sử dụng phổ quát bởi những cột trụ chống đỡ trước kia của chế độ.

    Thường thường thì đối phương nhất định phủ nhận việc những người đối kháng đạt được mục tiêu là phần nào do tác dụng của đối kháng. Đối phương bị đánh bại đôi khi cố làm hết sức mình để cứu vãn thể diện. Cũng có thể là trường hợp những đối thủ mạnh hiếm khi muốn các nhóm đối lập và tập thể dân chúng ý thức được là tiềm năng sức mạnh của họ, bằng chiến lược và hành động khôn ngoan, có thể được biến thành sức mạnh hữu hiệu. Một lối cắt nghĩa khác về sự thay đổi có thể được cống hiến ở đây. Có lẽ, có thể là đối phương cho là những quan điểm hay chánh sách của họ đã bị hiểu lầm, những khiếu nại bất bình là kết quả của quản trị yếu kém hay là của những sai lầm do cấp thừa hành gây nên, hay sự thay đổi đã được chuẩn bị ngay từ trước rồi. Người ta cũng có thể cho rằng sự thay đổi đã bị trì hoãn bởi những hành động của nhóm đấu tranh bất bạo động.

    Những cách thức thành công được thực hiện sẽ biến đổi theo những mục tiêu được lựa chọn, tầm cỡ của cuộc đấu tranh, và bản chất của nhóm đối phương. Trong một cuộc xung đột tầm cỡ chống lại một nền độc tài hùng mạnh sẵn lòng sử dụng đàn áp tàn khốc, nền độc tài có thể bị đánh sập bằng cách bị tập thể dân chúng rút hết uy quyền và bắt phải khuất phục, toàn thể xã hội nhất loạt đóng cửa, tổng đình công, quần chúng biểu tình tại gia, tuần hành thách thức, làm mất quyền kiểm soát kinh tế, hệ thống chuyên chở, và thông tin, trì hoãn công việc và thách thức bởi công chức và cảnh sát, bất tuân trá hình hoặc là nổi loạn bởi quân đội, hay là những sinh hoạt khác nữa. Như là hậu quả của thách thức và bất hợp tác như thế, được thi hành một cách khôn ngoan và với sự tham dự đông đủ của quần chúng trong việc đối kháng trong một thời gian, thì ngay cả những nhà độc tài vẫn phải trở thành bất lực. Các lực lượng dân chủ, không bạo động, sẽ thắng.

    Dĩ nhiên, đây không phải là một hoàn cảnh tiêu biểu trong đó đấu tranh bất bạo động được ứng dụng. Hầu hết rất nhiều các trường hợp ít khó khăn hơn là đối đầu với độc tài quá khích. Để chống lại một nền độc tài hùng mạnh, phong trào đối kháng rất có thể đòi hỏi phải có vài chiến dịch và một thời gian khá dài mới thành công được. Tuy nhiên, trong một vài hoàn cảnh có được những điều kiện thuận lợi và hầu hết công việc nền móng đã được đặt xong, thì sự sụp đổ của nền độc tài có thể xảy ra rất nhanh chóng, như đã từng xảy ra tại Tiệp Khắc và Đông Đức năm 1989.

Xử lí chuyển tiếp một cách khôn khéo

Các chiến lược gia và những người lãnh đạo bất bạo động phải sớm cung cấp cho những người đối kháng những nhận định để giúp họ đối diện và giải quyết những khó khăn mà họ có thể gặp phải khi phong trào sắp sửa thành công hay đã đạt được những mục tiêu của mình. Những khó khăn này có thể bao gồm những nỗ lực của đối phương nhằm phá vỡ phong trào, phổ biến những rêu rao là sự thành công do công lao của những người đối kháng thực sự đã do một nhóm khác tranh thủ được, hay là những người đối kháng đang cố cướp Chính Quyền bằng đảo chánh.

    Trong quá khứ, một vài cuộc đấu tranh bất bạo động hầu như đã thành công hay đã hoàn toàn thành công trong việc đạt được mục tiêu, đã gặp phải sự can thiệp và phá rối thù nghịch phương hại đến những kết quả đã đạt được và đưa đến một chế độ áp bức mới. Ví dụ, cuộc Cách Mạng Nga chống Nga hoàng thành công vào tháng Hai/Ba năm 1917 đã được tiếp nối một vài tháng sau đó bởi việc nhóm Bôn Sơ Vích cướp Chính Quyền vào tháng Mười/Mười Một. Một thí dụ khác là cuộc cách mạng chủ yếu là bất bạo động của Iran năm 1979, đã được tiếp nối bằng sự thiết lập nền độc tài của hàng giáo phẩm. Những diễn biến như thế có thể được làm cho ít xảy ra hơn, nếu được tiên đoán và có những kế hoạch đã được chuẩn bị trước để ngăn chặn và chống lại những nguy hiểm như thế.

    Nếu cuộc đấu tranh là một cuộc đấu tranh tầm cỡ có mục đích phân huỷ nền độc tài đã được thiết lập và mục đích này đã đạt được, thì một giai đoạn mập mờ chính trị có chiều hướng sẽ tiếp theo sau đó. Những người đối kháng phải tính toán trước là sự chuyển tiếp từ nền độc tài đến chính quyền lâm thời mới sẽ được xử lí như thế nào khi chấm dứt cuộc đấu tranh để thiết lập một hệ thống chính trị bền vững và cải tiến. Bất cứ những người hay nhóm nào muốn trở thành những nhà độc tài mới cũng phải được chặn lại, mặc dù dĩ nhiên là họ phủ nhận ý đồ này.

    Điều rất quan trọng đối với những chiến lược gia và những người lãnh đạo đấu tranh bất bạo động là phải thẩm định tình hình cho chính xác. Họ cũng sẽ cần phải củng cố chiến thắng và quyết định làm thế nào để có cách hay nhất ngăn chặn và đánh bại những tấn công thù nghịch có thể xảy ra. Những tấn công này có thể bao gồm những tấn công quốc tế, như là sự xâm nhập quân sự hay các dịch vụ tình báo ngoại bang và những cộng tác viên của họ. Cần đặc biệt lưu ý đến việc chuẩn bị những kế hoạch nhằm đánh bại các vụ đảo chánh2, và lưu ý đến bất cứ những nỗ lực nào khác nhằm thiết lập nền độc tài mới. Cũng cần phải lưu ý đến việc chuẩn bị làm thế nào để đối diện với những nguy hiểm của việc bàn giao giữa nền độc tài và chế độ mới, và tầm quan trọng của việc xây dựng một xã hội tự do có khả năng chịu đựng được những đe doạ mới có thể xảy ra.

   Những vấn đề ngắn hạn cần được lưu ý trong giai đoạn chuyển tiếp bao gồm làm thế nào để củng cố và tăng cường nền cai trị dân chủ của nhân dân vừa mới được thiết lập, làm thế nào để khuyến dụ quân đội và cảnh sát chuyển đổi lòng trung thành và chấp nhận hệ thống mới, và làm sao để chống lại những nỗ lực cướp Chính Quyền.

    Điều khôn ngoan là công nhận tình hình chính trị và xã hội tiếp theo sau sự sụp đổ của một nền độc tài không phải là một xã hội lí tưởng mà tất cả mọi người và phe nhóm mong ước. Còn có thêm những mục tiêu quan trọng khác sẽ cần phải được tranh thủ trong tương lai. Những mục tiêu này bao gồm tạo nên và phong phú hoá các hình thức kiểm soát dân chủ, tự do chính trị, sự tham dự của dân chúng, và công lí xã hội và kinh tế. Vào thời điểm này thì những mục đích này tốt lắm cũng chỉ sẽ mới đạt được một cách không hoàn hảo và tệ lắm thì cũng sẽ là những vấn đề nghiêm trọng đòi hỏi một sự lưu tâm thích đáng. Tuy nhiên, thực tế sẽ là một bộ mặt trầm trọng của áp bức trong hình dáng của một trật tự chính trị cũ đã bị loại bỏ một cách hữu hiệu như là kết quả của một cuộc đấu tranh bất bạo động khôn ngoan và can đảm do dân chúng thực hiện. Thành công mở đường cho những bước tiến hữu hiệu tiếp theo trong việc cải tiến và phong phú hoá xã hội loài người.

Phát triển tiềm năng tương lai

Trong một thế giới của nhiều xung đột ác liệt, của áp bức tràn lan, và của bạo lực; kĩ thuật đấu tranh bất bạo động có nhiều tiềm năng để được áp dụng thành công hơn bao giờ hết trong rất nhiều tình huống khác nhau, so với trước đây. Phân tích chiến lược, lập kế hoạch, và hành động có thể tăng hiệu lực của việc sử dụng kĩ thuật này trong tương lai rất nhiều.

    Những nhận định về tầm quan trọng và về việc hoạch định khôn ngoan của đấu tranh bất bạo động có chiến lược ở đây không phải là phát biểu tối hậu. Những nhận định này cũng không phải là những nghiên cứu duy nhất về chiến lược trong những cuộc đấu tranh bất bạo động mà những người lập kế hoạch và những người lãnh đạo chiến lược phải xét định. Còn có thêm một phân tích rất quan trọng đã được TS. Peter Ackerman và TS. Christopher Kruegler đưa ra trong cuốn sách của họ, Đấu Tranh Bất Bạo Động Có Chiến Lược: Những Động Năng của Sức Mạnh Nhân Dân trong Thế Kỉ Hai Mươi3 [Strategic Nonviolent Conflict: The Dynamics of People Power in the Twentieth Century]. Các tác giả này cung cấp những phân tích chi tiết về 12 nguyên tắc tổng quát của đấu tranh bất bạo động có chiến lược.

     Một công trình nghiên cứu rất quan trọng khác là cuốn Về Đấu Tranh Bất Bạo Động Có Chiến Lược4 [On Strategic Nonviolent Conflict] của Robert Helvey. Nghiên cứu này vừa duyệt lại những nhận định cơ bản về kĩ thuật đấu tranh vừa cung cấp một phân tách cao cấp về nhiều yếu tố trong việc áp dụng kĩ thuật này. Những yếu tố này gồm có phỏng định chiến lược, những vận hành tâm lí, phân tích chiến lược, sự sợ hãi, lãnh đạo, các loại ô nhiễm, và các tham vấn.   

    Bây giờ thì sự chú trọng chính yếu và các tài nguyên phải được khẩn cấp tập trung vào công tác cải tiến đấu tranh bất bạo động, phát huy các cách sử dụng chiến lược khéo léo của kĩ thuật này thay cho bạo động, và tìm hiểu các loại hoàn cảnh xung đột mà kĩ thuật này có thể được áp dụng thay thế cho cả sự thụ động lẫn bạo động.

____________________________________

CƯỚC CHÚ

1 Arne  Nӕss định nghĩa đối kháng vi mô là “đối kháng bởi những cá nhân và những nhóm rất nhỏ, tạm thời, được xúc tiến theo một phương cách mà sự phát lộ và tiêu diệt của những tổ chức lớn sẽ không ảnh hưởng đến loại đối kháng này, ít nhất cũng không trực tiếp.” Xem Adam Robert, ed. Đối Kháng Dân Sự Như Là Quốc Phòng, Harrisburg, Pennsylvania: Stackpole Books, 1967 và Chiến Lược Quốc Phòng (London: Faber & Faber, 1967), tt. 252 và 270n. Có nhiều thí dụ dẫn chứng.

2 Xem Gene Sharp và Bruce Jenkins, Chống Đảo Chánh [The Anti-Coup], Boston, Massachusetts: Viện Albert Einstein, 2004, và Gene Sharp, Phòng Thủ trên Cơ Sở Dân Sự [Civilian-Base Defense], Princeton, New Jersey: Princeton University Press, 1999.

3 Peter Ackerman và Christopher Kruegler, Đấu Tranh Bất Bạo Động Có Chiến Lược: Những Động Năng của Sức Mạnh Nhân Dân trong Thế Kỉ Hai Mươi [Strategic Nonviolent Conflict: The Dynamics of People Power in the Twentieth Century] (Westport, Connecticut and London: Praeger, 1994), Chương Hai, tt. 21-53.

 4 Robert Helvey, Về Đấu Tranh Bất Bạo Động Có Chiến Lược: Suy Nghĩ về Những Điều Căn Bản [On Strategic Nonviolent Conflict: Thinking About Fundamentals], Boston: Viện Albert Einstein, 2004.

  

Categories: Uncategorized

0 Comments

Leave a Reply

Avatar placeholder

Your email address will not be published.