Thích Trí Quang

            Thích Trí Quang tên thật là Phạm Văn Bồng, về sau đổi tên thành Phạm Quang, sinh ngày 21/12/1923 tại làng Diêm Điền, Thị xã Đồng Hới, Tỉnh Quảng Bình. Làng Diêm Điền vốn là một làng nhỏ và nghèo. Dân làng đa số làm nghề nông hoặc làm thuê làm mướn. Người dân Diêm Điền có bản chất bảo thủ, cực đoan, và rất quá khích.

Thích Trí Quang vốn xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo khổ và là con thứ hai trong bốn anh em trai. Nhà nghèo đến độ cha mẹ không nuôi nổi các con, nên Phạm Văn Bồng và người anh cả đã phải nương thân cửa Phật để kiếm miếng ăn. Hai anh em Phạm Văn Bồng được Hòa Thượng Hồng Tuyên ở chùa Phổ Minh thâu nhận làm đệ tử và đưa về chùa. Cũng cần nói thêm Hòa Thượng Hồng Tuyên đã có vợ và sanh được hai con rồi mới xuất gia.

Chùa Phổ Minh nằm tại Đồng Đình thuộc Thị xã Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Bốn anh em nhà họ Phạm đã được Hòa Thượng Phổ Minh dùng bốn chữ Minh, Quang, Chánh, Đại để đổi tên thành: Phạm Minh, Phạm Quang, Phạm Chánh, Phạm Đại. Nhờ nương náu cửa Phật tại chùa Phổ Minh nên Phạm Quang và anh cả Phạm Minh có được chút học hành. Song trình độ của cả hai không qua lớp ba bậc tiểu học, chỉ hiểu biết tối thiểu một số chữ Quốc Ngữ. Phạm Quang tức Thích Trí Quang học được một chút đỉnh Hán Văn do sư phụ Hồng Tuyên truyền dạy cho, còn về Tây học thì hoàn toàn mù tịt. Riêng Phạm Chánh và Phạm Đại đều chịu thất học.

Năm 1945 khi Việt Minh (Cộng Sản) nổi lên toàn quốc, Phạm Minh rời bỏ tu hành theo Việt Minh kháng chiến. Phạm Minh phục vụ trong Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Xã tại địa phương. Sau này Phạm Minh là một Ủy Viên của Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Quảng Bình. Phạm Chánh và Phạm Đại thì đầu quân vào bộ đội. Một thời gian ngắn sau, Phạm Chánh được Bộ Chỉ Huy quân du kích phong làm Tiểu Đội Trưởng Quân Du Kích. Ngày 4/6/1947 Phạm Chánh bị một đơn vị lính Pháp phục kích bắn chết tại Đức Phổ, một vùng nằm về phía tây của Thị Xã Đồng Hới, khi ấy Phạm Chánh mới có 21 tuổi. Phạm Đại, người em út của Trí Quang, làm y tá trong bộ đội cộng sản tại địa phương. Phạm Đại chết sau 1975.

Theo ký giả Robert Sharplen đã viết trong cuốn The Lost Revolution xuất bản vào năm 1965 do nhà xuất bản Harper and Row ấn hành, có đoạn kể rằng: “Phạm Minh, người anh của Thích Trí Quang đã đi theo Việt Minh Cộng Sản ngay từ buổi đầu 1945. Vào khoảng tháng 5 năm 1964 sau cuộc đảo chánh tại Miền Nam, Phạm Minh đã giả trang làm một tăng sĩ Phật Giáo với tên là Thích Diệu Minh lẻn vào chùa Từ Đàm tại Huế thăm người em ruột của nó là Thích Trí Quang”.

Theo Đại Tá Hiển, nguyên Giám Đốc Cảnh Sát Công An Trung Nguyên Trung Phần thời Đệ I Cộng Hòa trước biến động 1963, và sau đó ông về chỉ huy Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo VNCH, rồi Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Vùng III cho đến ngày ông bị Việt Cộng phục kích đặt mìn làm ông bị mù mắt vĩnh viễn, thì sau ngày 30/4/1975 thân mẫu của ông có đến chùa Ấn Quang và đã bắt gặp Phạm Minh tức Thích Diệu Minh mặc thường phục đang ngồi với Thích Trí Quang. Bà cụ đã nói thẳng với Thích Trí Quang: “Tôi thật không ngờ thầy là Việt Cộng!” Thích Trí Quang im lặng không trả lời.

Năm 1933, Bác Sĩ Lê Đình Thám, Thượng Tọa Thích Mật Thể, và Hoàng Thân Tráng Đinh, anh em chú bác ruột với Hoàng Thân Tráng Cử, đứng ra thành lập Trường An Nam Phật Học Huế, nhằm mục đích đào tạo tăng sĩ. Năm 1939 khi được mười sáu tuổi, Phạm Quang được tuyển vào trường này và thọ giáo với Hòa Thượng Thích Trí Độ, Giám Đốc của trường.

Thích Trí Độ là đảng viên cộng sản. Y gia nhập Đảng Cộng Sản vào năm 1941, thời điểm này Đảng Cộng Sản Việt Nam còn hoạt động trong bóng tối. Năm 1943, Thích Trí Độ đặt pháp hiệu cho Phạm Quang với chữ Trí đứng đầu, từ đó mà có tên Trí Quang. Thích Trí Quang tốt nghiệp khóa Phật Học Trung Cấp vào đầu năm 1944.

Cũng trong thời gian này, qua người anh trai Phạm Minh, Trí Quang đọc được tài liệu về Bản Tường Trình Sự Cần Thiết Thành Lập Mặt Trận Việt Minh của Trường Chinh. Tâm đắc với nội dung của nó, Trí Quang nhận thấy rằng theo Việt Minh là lựa chọn tốt nhất.

Năm 1945, sau khi Việt Minh cướp chính quyền, Thích Trí Độ được Đảng Cộng Sản cử giữ chức vụ Chủ Tịch Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Cứu Quốc. Thích Trí Độ đã lôi kéo được một số tăng sĩ theo Cộng Sản. Y đã bổ nhiệm Thích Thiện Minh giữ chức vụ Chủ Tịch Phật Giáo Cứu Quốc ở tỉnh Quảng Trị, Thích Mật Thể ở Thừa Thiên Huế, và Thích Huyền Quang ở Liên Khu 5 gồm các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, và Phú Yên.

Mùa xuân năm 1946, Trí Quang gởi qua đường bưu điện cho Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, bản đề án thống nhất Phật Giáo Việt Nam và bản hiến chương do chính Trí Quang soạn thảo. Mùa hè năm 1946, Trí Quang cùng với Trí Độ được mời ra miền bắc Việt Nam để thành lập Phật Học Viện. Tại chùa Quán Sứ, Hòa Thượng Tố Liên cho Trí Quang biết Hồ Chí Minh đã mời Tố Liên đến thảo luận và trao đề án của Trí Quang. Do đang tiến hành thành lập Phật Học Viện nên chưa ai có thời gian để thực hiện đề án nói trên.

Trí Quang trở lại Diêm Điền để giữ chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Phật Giáo Cứu Quốc của Tỉnh Quảng Bình, sau khi Việt Minh Cộng Sản do Hồ Chí Minh lãnh đạo tuyên bố “Toàn Quốc Kháng Chiến” và ra lệnh cho đồng bào toàn quốc phải tản cư khỏi các thành phố lớn như Hà Nội, Huế, và Sài Gòn.

THÍCH TRÍ QUANG BỊ PHÒNG NHÌ PHÁP BẮT VÌ CAN TỘI HOẠT ĐỘNG CHO VIỆT MINH CỘNG SẢN

Vào ngày 25/6/1947 khi quân đội Pháp tái chiếm Thị Xã Đồng Hới, Thích Trí Quang rời làng Diêm Điền đến trú ngụ tại làng Diên Nghĩa. Thời gian này Trí Quang hoạt động cộng sản cùng một tổ với hai cán bộ nội thành của Việt Minh Cộng Sản thuộc Thị xã Đồng Hới là Nguyễn Toại, dân làng thường gọi là Toại Béo, ở Đồng Đình; và Nguyễn Tịch ở Đồng Phú. Chẳng bao lâu, cả ba gồm Trí Quang, Nguyễn Toại, và Nguyễn Tịch bị Phòng Nhì (II) Pháp hốt trọn ổ và bị giam ở trạm Thiên Văn Tam Tòa. Nguyễn Tịch thoát ngục. Nguyễn Toại bị quân Pháp xử tử hình vì trong suốt thời gian hoạt động y cùng đám Việt Minh Cộng Sản đã sát hại nhiều thành phần quốc gia. Riêng Trí Quang bị giam giữ một thời gian và rồi được lực lượng an ninh Pháp trả tự do.

Không lâu sau đó, Trí Quang lại bị Phòng II Pháp bắt giữ vì y tái hoạt động cho Việt Minh Cộng Sản. Lần này Thích Trí Quang bị giam lâu hơn lần trước. Hội An Nam Phật Học tại Huế đã nhờ đến thân mẫu của Đức Quốc Trưởng Bảo Đại là Đức Bà Đoan Huy Hoàng Thái Hậu, tức Đức Bà Từ Cung, can thiệp và sau đó, một viên chức bảo hộ của chính quyền Pháp đứng ra bảo lãnh cho Trí Quang. Lần này Trí Quang đã phải làm giấy cam kết không hoạt động cho Việt Minh Cộng Sản nữa. Sau khi được thả ra, nhận thấy Đồng Hới không còn là nơi an toàn cho mọi hoạt động bí mật, Thích Trí Quang quyết định rời Đồng Hới vào Huế.

Thời gian đầu Thích Trí Quang ngụ tại chùa Báo Quốc và thời gian sau y về trú ngụ tại chùa Từ Đàm. Tại chùa Từ Đàm, bề nổi y đóng vai là một người tu đạo chăm chỉ, nhưng bề chìm y vẫn âm thầm hoạt động cộng sản.

THÍCH TRÍ QUANG GIA NHẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Theo hồ sơ văn khố của sở Mật Thám Pháp còn lưu giữ tại trung tâm hồ sơ văn khố thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc gia Thừa Thiên Huế trước 1975 thì Thích Trí Quang là đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam. Buổi lễ kết nạp vào Đảng Cộng Sản được tổ chức tại chiến khu Lương Miêu Dương Hòa do Tố Hữu, đại diện cao cấp của Đảng Cộng Sản Việt Nam chủ tọa buổi lễ vào năm 1949. Mật khu Lương Miêu Dương Hòa nằm về hướng tây nam thành phố Huế, và cách thành phố Huế khoảng trên sáu mươi cây số đường bộ. Đây là một vùng thung lũng rộng lớn bao bọc bởi những dãy núi đồi trùng điệp thuộc quận Nam Hòa, tỉnh Thừa Thiên. Nơi đây là căn cứ địa của Tỉnh Ủy và Tỉnh Đội Thừa Thiên Huế của lực lượng Việt Minh.

Việc Tố Hữu, Ủy Viên Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, đứng ra kết nạp Thích Trí Quang vào Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng đã được chính Tố Hữu xác nhận, nhân khi đề cập đến những nhân vật Quốc Gia và Cộng Sản của miền nam Việt Nam trước năm 1975, vào mùa hè năm 2000 trong một bữa cơm thân mật do Tố Hữu khoản đãi tại tư thất của y ở Hà Nội, với hai nhân chứng: Ông Nguyễn Văn  hiện đang sống tại thành phố Huế, và Ông Kasahara… hiện đang sống tại Tokyo Nhật Bản.

THÍCH TRÍ QUANG HOẠT ĐỘNG CHO CỤM TÌNH BÁO CHIẾN LƯỢC CỘNG SẢN HÀ NỘI

Theo lời khai của Trung Tá Điệp Viên Hoàng Kim Loan đã được kiểm chứng qua máy đo Sự Thật của  cơ quan tình báo CIA Hoa Kỳ vào tháng 5/1972, khi Hoàng Kim Loan bị lực lượng Cảnh sát Quốc Gia Thừa Thiên bắt tại Huế thì:

Trước ngày lễ Phật Đản 8/5/1963, khi ấy đương sự Hoàng Kim Loan là phái khiển tình báo của Cụm Tình Báo Chiến Lược đã được lệnh của cơ quan, phối hợp chặt chẽ với Thích Trí Quang phát động phòng trào quần chúng đấu tranh để lật đổ Tổng Thống Đệ I VNCH Ngô Đình Diệm và chính thể Đệ I VNCH.

– Và sau khi cuộc lật đổ thành công, những cuộc biểu tình bạo động tại Huế hỗ trợ cho những yêu sách của Thích Trí Quang và Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Huế kế tiếp đã đánh sập bảy [7] chính phủ dân sự của chính quyền miền Nam Việt Nam sau ngày 1/1/1964.

– Vụ Biến Động Miền Trung, mưu đồ thành lập Khu Tự Trị của Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

– Vụ thảm sát đồng bào Huế vào Mậu Thân 1968.

– Tổng nổi dậy tại Huế vào mùa hè đỏ lửa, tháng 5/1972. Tất cả đều do y phối hợp hành động cùng Thích Trí Quang.

THÍCH TRÍ QUANG LÀM MẬT BÁO VIÊN CHO CƠ QUAN TÌNH BÁO HOA KỲ CIA

CIA and The Generals: The Station and the An Quang Buddhists. Released 2009. P. 38

Hồ sơ giải mật vào năm 2009 của CIA, Thích Trí Quang là Mật Báo Viên của CIA. và đã nhận 12500 US Dollars tính đến 12/1965 để hoạt động theo nhu cầu của CIA.

Categories: Uncategorized

0 Comments

Leave a Reply

Avatar placeholder

Your email address will not be published.