CỘNG SẢN HÀ NỘI XÉ BỎ HIỆP ĐỊNH PARIS. CHÍNH PHỦ HOA KỲ,CỘNG SẢN BẮC VIỆT,TRUNG CỘNG, NGA SÔ PHỐI HỢP NHỊP NHÀN KHAI TỬ VIỆT NAM CỘNG HÒA.

“Hiệp định Hòa Bình Paris” vừa ký chưa ráo mực thì công sản Hà nội với sự đồng tình của Hoa Kỳ sửa soạn  kế hoạch tấn chiếm miền Nam Việt Nam. Kế hoạch của bọn họ được chia làm 2 phần và thực hiện làm 2 giai đoạn.

1/PHẦN I, GIAI ĐOẠN I

Chính phủ Hoa Kỳ giảm dần viện trợ quân sự và tài chánh. Đồng thời phối hợp với Cộng sản Hà Nội và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam gây xáo trộn chính trị tại các đô thị lớn của miền Nam như Sài Gòn, Huế.                                                                                 

Đầu tiên viện trợ quân sự Hoa Kỳ dành cho VNCH từ 1,126 triệu đô la giảm xuống còn 900 triệu. Tính đến tháng 5/74 thì số đạn dược,vũ khí  của QLVNCH tồn kho chỉ còn đủ dùng không đầy 5 tháng. Trong khi ấy chiến cụ của QLVNCH có khoảng 45% quân xa, 30% thiết giáp và phi cơ bất khiển dụng vì thiếu phụ tùng thay thế và thiếu nhiên liệu.Việt Nam Cộng Hòa gặp khó khăn, thì CSBV lại được Nga,Tàu viện trợ tối đa. Cán cân lực lượng quân sự giữa hai bên đã nghiêng phần bất lợi cho VNCH một cách rõ rệt.

Về vấn đề gây hổn loạn chính trị tại hậu phương VNCH, đầu tiên bọn chúng xủ dụng lực lượng thành phần thứ 3, Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc của Thích Trí Quang, Dương văn Minh, đảng phái chính trị đối lập,và một thành phần nhỏ của Công giáo.

Phong trao” Ký Giả Ăn Mày” ra đời. Phong trào” Chống Tham Nhũng” của Linh Mục Trần Hữu Thanh và Đại Việt Cách Mạng của ông Hà thúc Ký mà đại diện là Dân Biểu Hạ Viện Nguyễn Văn Kim đảng viên Đại Việt, và ông Hoàng Xuân Tửu Thượng Nghị sĩ và là nhân vật Thứ 2 của đảng Đại Việt cũng đã được ra đời.

Phong trào này được cơ quan tình báo Hoa Kỳ hổ trợ. Cả hai tổ chức kể trên, một mặt tố cáo Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu tham nhũng, buôn bán bạch phiến, một mặt yêu cầu Tổng Thống Thiệu phải từ chức ngay lập tức, để bọn chúng điều hành đất nước, thương lượng với cộng sản Hà Nội và Mt Trận Giải Phóng Miền Nam trong tình thần” Hòa Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc” để chấm dứt chiến tranh. Hậu phương hổn loạn…

2/PHẦN II, GIAI ĐOẠN II

Cộng sản Hà Nội xử dụng quân sự. Chính phủ Hoa Kỳ bội ước, ngoẵn mặt làm ngơ, không can thiệp.

Ngày 6 tháng1/1975, Lợi dụng tình hình chính trị rối loạn tại Sài Gòn, cộng quân đã mở trận đánh thăm dò phản ứng của Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ. Đầu tiên bon chúng cắt đứt quốc lộ 14, con đường nối liền tỉnh Phước Long với Bộ Tư Lệnh SĐ 5 BB đóng tại Lai Khê. Sau đó đến ngày 6/1/75, cộng quân huy động 2 sư đoàn cùng với chiếc xa, pháo binh, súng phòng không đánh chiếm tỉnh Phước Long.

Trước việc cộng quân vi phạm trắng trợn Hiệp Định Ba Lê, chính phủ VNCH đã lên tiếng phản đối, thế nhưng Ủy Ban Liên Hợp quân Sự 4 phe kiễm soát đình chiến dóng tại Tân Son Nhất  in lặng, và chính phủ Hoa Kỳ cũng im lặng.Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford, người thay thế TT. Nixon không có phản ứng gì.

– Ngày 19/2/1975, Cộng quần chiếm Tỉnh Quảng Trị.

-Mất Ba Mê Thuộc ngày16/3/1975. Cộng quân tấn công Ba Mê Thuộc vào lúc 2 giờ sáng ngày 10/3/1975  Cộng sản Bắc Việt đã dùng 3 sư đoàn chính quy F10,SĐ316,SĐ320,   tấn công Bộ Tư Lênh sư đoàn 23 BB và Bộ chỉ huy Tiểu khu Darlac mở màn cho chiến dịch Tây Nguyên. Ba Mê Thuộc lọt vào tay cộng quân ngày 16/3/1975.

Ngày 14/3/75, TT. Nguyễn văn Thiệu ra Cam Ranh họp với 4 tướng Tư lệnh 4 Vùng chiến thuật với sự có mặt của 3 cố vấn là các tướng Trần thiện Khiêm, Cao văn Viên và Đặng văn Quang. Buổi họp đã đi đến quyết định bỏ ngỏ cao nguyên vì TT. Thiệu cho rằng, trong tình trạng thiếu quân viện QLVNCH không đủ khả năng bảo vệ toàn bộ lãnh thổ nên phải bỏ bớt những vùng kém trù phú, gom lực lượng về bảo vệ vùng duyên hải và đồng bằng. Sau buổi họp, tướng Phạm văn Phú Tư Lệnh Quân Đoàn II nhận chỉ thị lo việc di tản quân dân VNCH khỏi vùng cao nguyên, tướng Phú ủy thác nhiệm vụ lại cho Đại tá Tất vừa được vinh thăng chuẩn tướng.

Ngày 16/3/1975, Komtum di tản.

Ngày 17/3/1975, Pleiku di tản.

Cuộc di tản do thiếu tổ chức, không có kế hoạch chu đáo đã diễn ra một cách hỗn loạn trên tỉnh lộ 7. Đoàn người di tản kẹt cứng tại bến phà sông Ba làm mồi cho những trận mưa pháo của quân thù. Rốt cuộc chỉ có 1/6 trong số 260 ngàn dân và 3 tiểu đoàn trong số 8 tiểu đoàn  thoát được về vùng duyên hải.

Ngày 28/2 /mất Huế. Tổng Thống Thiệu cho rút toàn bộ Sư Đoàn Dù và Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến về bảo vệ thủ đô vì sợ bị đảo chính. Không đủ lực lượng phòng thủ, tướng Ngô quang Trưởng Tư Lệnh Vùng I Chiến thuật phải lui binh về cố thủ Đà Nẵng. Cuộc thoái quân cũng không kém phần hỗn loạn.                                        

Ngày 29/3/1975, Mất Đà Nẵng.                                                                                                                           

Ngày 30/3/75, thành phố Đà Nẵng hoàn toàn lọt vào quyền kiểm soát của cộng quân. Việt Nam Cộng Hòa đang trên đà sụp đổ. Năm sư đoàn bộ binh và các lực lương Không quân, Hải quân, Địa phương quân, Nghĩa quân và nhiều lực lượng Tổng Trừ Bị, tổng cộng gần 300 ngàn quân đã tan rã.                                                                                                            Tính đến trung tuần tháng 4/75 thì Vùng I và Vùng II chiến thuật, các vùng duyên hải trung phần đã hoàn toàn lọt vào tay cộng quân.

Từ cao nguyên Trung phần cộng quân tiến về Sài Gòn. Khi đến phòng tuyến Xuân Lộc quân CSBV phải khựng lại vì chạm phải sức kháng cự mãnh liệt, anh dũng của các chiến sĩ QLVNCH. Phòng tuyến Xuân Lộc đã đứng vững vàng trong suốt một tuần lễ từ 9-15/4/75

-Ngày 21/4/75, Tổng Thống  Nguyễn văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho Phó TT. Trần văn Hương theo quy định của hiến pháp, chấm dứt thời kỳ quân đội điều hành quốc gia trong cuộc chiến Quốc-Cộng.            

-Vào chiều ngày 25/4/75, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, vả Thủ Tướng Trần Thiên Khiêm với gia đình và đoàn tùy tùng rời Việt Nam đi Đài Loan an toàn với sự hộ tống trùm CIA Sàigòn Thomas Polar, tướng Charles Times và đại sứ Martin.                                                                                     

Sau khi nhận chức TT. Trần văn Hương mời Dương văn Minh đứng ra thành lập chính phủ để nói chuyện với phía cộng sản, nhưng Dương văn Minh đòi TT. Hương phải bàn giao trọn quyền tổng thống thì ông ta mới có uy thế nói chuyện với phía bên kia. Tổng thống Hương biết Dương văn Minh là kẻ bất tài, thiển cận về chính trị nên đã không làm theo ý của ông Minh. Tổng thống Hương đành phải tự giải quyết việc thương thuyết với CSBV, nhưng CSBV trả lời rằng họ chỉ muốn nói chuyện với Dương văn Minh.

Chiều ngày 28/4/75, Dương văn Minh lên nhậm chức tổng thống VNCH. Sau khi Dương văn Minh lên nắm quyền, các ông Trần văn Đôn, Cao văn Viên và nhiều tướng lãnh cao cấp khác thuộc Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH mạnh ai nấy tìm đường cao bay xa chạy trong khi các chiến sĩ QLVNCH đang bảo vệ thủ đô, và những phần đất còn lại không hay biết gì hết nên vẫn tiếp tục kiên cường chiến đấu. Riêng TT. Trần văn Hương mặc dù được Hoa Kỳ đặc biệt cung cấp phương tiện để rời nước, nhưng ông từ chối không đi. Ông ở lại đối đầu với VC cho tới giờ phút Sài Gòn thất thủ và mãi mãi.Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, đại sứ Martin và những người Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, bốn quân đoàn Cộng sản Bắc Việt từ từ siết chặt vòng vây quanh thủ đô Sài Gòn với những đợt pháo kích vào sân bay Tân Sơn Nhứt, Bộ Tổng Tham Mưu, Dinh Độc Lập.

10 giờ sáng ngày30/4/1975, Dương văn Minh lên đài phát thanh kêu gọi toàn thể quân nhân QLVNCH ngưng bắn, nằm yên tại chỗ để bàn giao chính quyền cho chính phủ của MTGPMN. Đến11 giờ 30, hai xe tăng đầu tiên của CSBV tiến vào ủi sập cổng Dinh Độc Lập.

Dương văn Minh và Vũ văn Mẫu đến đài phát thanh đọc lệnh đầu hàng nguyên văn như sau:

“Nhân danh tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, tôi Đại tướng Dương văn Minh, kêu gọi toàn thể Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa hãy bỏ súng và đầu hàng vô điều kiện với Quân Đội Giải Phóng Miền Nam. Tôi tuyên bố giải tán tất cả các cơ quan chính quyền từ trung ương đến địa phương”

MIỀN NAM NAM ĐÃ TRỞ THÀNH ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN CÓ THẬT, SAU NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975.                                                                                

MIỀN NAM VIỆT NAM  ĐÃ ÂM THẦM BỊ CỘNG SẢN VIỆT NAM TẮM MÁU.                                                                                                                                                                        

THỐNG KÊ CỦA CAO ỦY NHÂN QUYỀN LIỆN HIỆP QUỐC THÌ:

TRÊN MỘT TRIỆU DÂN (1,000,000), QUÂN, CÁN, CHÍNH, VIỆT NAM CỘNG HÒA BỊ TÙ ĐÀY TRONG CÁC TRẠI TÙ CỦA CNG SẢN ViỆT NAM.                                                  

TRONG SỐ NÀY CÓ:                                                                                                               

– HƠN HAI CHỤC NGÀN(20,000) NGƯỜI BỊ CỘNG SẢN XỬ BẮM.                                                                   

-MƯỜI TÁM NGÀN (180,00) ĐÃ BỎ MẠN TRONG CÁC TẠI TÙ CỦA CỘNG SẢN.

-NĂMNGÀN (5,000) NGƯỜI BỎ XÁC TRONG RỪNG SÂU NÚI THM KHI VƯỢT BIÊN BẰNG ĐƯỜNG BỘ.

BỐN TRĂM NGÀN (400,000) NGƯỜI ĐÃ NẰN DƯỚI LÒNG BIỂN CẢ KHI VƯỢT BIỂN TÌM TỰ ĐO.

-TRÊN NĂM MƯƠI NGÀN(50,000) PHỤ NỮ VÀ TRẺ GÁI BỊ HẢI TẶC THÁI LAN HÃM HIẾP, SÁT HẠI.

-TRÊN BA TRIỆU MỘT TRĂM NGÀN (3,100,000) ĐỒNG BÀO HIỆN ĐỊNH CƯ THEO DIỆN TỴ NAM CỘNG SẢN TẠI HOA KỲ, ÂU CHÂU, VÀ ÚC CHÂU VÀ MỘT  SỐ QUỐC GIA KHÁC.

 

 

 

 

 

 

 

 

Categories: Uncategorized

0 Comments

Leave a Reply

Avatar placeholder

Your email address will not be published.