Kính gởi:

Đồng bào Quôc Nôi và Hải Ngoại

Quý Chiến Hữu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

Quý Chiến Hữu Cảnh sát Quốc Gia VNCH

Orange County, California. 

USA Ngày 13/1/2018

Thưa quý Vị,

Năm nay Tết lại đến vào ngày 5 tháng 2 năm 2019 Dương Lịch.

Để tưởng niệm 5327 thường dân vô tội bị thảm sát và 1200 người bị bắt đi mất tích mà thủ phạm vụ tàn sát dã man nầy là Hồ Chí Minh, đảng cướp cọng sản Việt Nam và đám cơ sở nằm vùng của bọn chúng là:

Thích Trí Quang[Còn sống và hiện tại ở Chùa Từ Đàm Huế], Thích Đôn Hậu [đãchết], Thích Thiện Siêu[chết], Giáo Sư Nhân Chủng Hoc tại VIện Đai Học Huế Lê văn Hảo[hiện sống tai Pháp Quốc], Hiệu Trưởng Trường Nữ Trung Hoc Đồng Khánh Đào Thị Xuân Yến[chết] tức Tuần Chi, Giáo Sư Hoàng Phù Ngoc Tường[hiên tại Huế], Sinh Viên Hán Hoc năn Thứ 2, Viện Đại Học Huế Nguyễn Đắc Xuân [hiên sống tại Huế], Sinh Viên Y khoa Hoàng Phủ Ngọc Phan [hiện sống tại Saigon], Giáo sư Trường Trung Học Bồ Đề Tôn Thất Dương Tiềm[chết], Giáo sư Nguyễn Đóa[chết], Sinh Viên Dược Khoa Nguyễn Thị Đoan Trinh[Hiện sống và mở pharmacy tại sài gòn] và quá nhiều…

Là một nhân chứng từ trước Mậu Thân1968, trong thời gian Mậu Thân 1968, và sau Mậu Thân 1968. Trong Chức vụ là phó trưởng Ty Cảnh Sát Đặc Biệt Ty Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế, và Quận Trưởng Quân III Thị Xã Huế. Kể từ ngày hôm nay tôi xin trích đăng từng chương một, tác Phẩn:

HUẾ THẢM SÁT MẬU THÂN 1968 của tôi tức Tác giả Liên Thành.

Trân trọng .

Liên Thành

 

MÙA ĐÔNG NAM CALI NHỚ VỀ HUẾ MẬU THÂN 1968

Đã hơn năm mươi  năm trôi qua, kỷ niệm về Huế Mậu Thân trong tôi vẫn không hề phai nhạt, vẫn rõ ràng và đau đớn như ngày nào. Rồi đến khi phải chia lìa Huế, từ lúc quê hương bắt đầu đắm chìm trong thảm họa cộng sản hơn ba mươi ba năm trước, tôi cũng chưa một lần về nhìn lại cảnh cũ người xưa, để tìm xem Huế có còn giữ được chút nào dấu vết thời gian không gian của một Huế ngày tháng rất xa, rất êm đềm lãng mạn và cũng đầy biến động ấy. Huế ơi, Hương Giang ơi, Ngự Bình ơi, đồi Vọng Cảnh ơi, biết chăng bao thương nhớ ray rứt u hoài của một người sinh ra lớn lên với số phận đã gắn liền với Huế cho đến ngày mất Miền Nam. Năm tháng trôi qua, cho đến hôm nay tôi vẫn chỉ tìm được ảo ảnh Huế qua những đêm mộng mị, những sáng sương mù, những chiều mưa ảm đạm xứ người.Nam Cali vùng xứ lạ quê người, không gian và thời gian của những ngày cuối năm buổi sáng trời trở lạnh, sương mù mênh mông mờ ảo, gợi nhớ Huế đến nao lòng. Cũng vào những ngày cuối năm cũng sương mù mênh mông dày đặc chắn cả lối đi như thế, hình ảnh những người đàn bà Huế với chiếc áo dài, khi ẩn, khi hiện, trong sương sớm quẩy đôi thúng cá nặng trĩu, kẽo kịt trên vai. Họ đi từ Chợ Dinh qua cầu Gia Hội, chợ Nọ qua cầu Tràng Tiền, đến chợ Đông Ba, hay những gánh cơm hến từ vùng Cồn Hến, băng qua Đập Đá lên đường Hàng Me. Rồi thì nồi bún trâu từ lò trâu Vân Dương lên vùng An Cựu, thơm và quyến rũ lạ lùng trong sương sớm. Ai là dân Huế mà chưa một lần ăn bún trâu Vân Dương thì quả là một thiếu sót lớn trong đời!  Giờ này, thời gian cuối năm cũng đã gần kề, từ chốn xa xôi biền biệt, chợt thấy nhớ quê hương, nhớ Huế một cách lạ lùng, nhớ da diết, và nhất là nhớ xót xa những ngày cận Tết năm 1968. Từ ngữ Mậu Thân hoặc từ ngữ “1968”, tất cả đều làm người ta kinh sợ nhớ ngay đến “Huế -Mậu Thân 68”, mà đã vĩnh viễn đi vào lịch sử với nỗi hãi hùng đau đớn.

Đã hơn năm mươi  năm trôi qua, nhưng vết thương Mậu Thân vẫn còn rất mới, rất đau trong lòng, mà cứ mỗi độ đông về trái gió trở trời, vết thương lại nhức nhối trở lại. Và đau nhất có lẽ là thế hệ chúng tôi, những kẻ mà nửa cuộc đời tuổi trẻ đã sống trọn và dâng hiến cho “cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp“, cho “sông An Cựu nắng đục mưa trong“, cho “tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương“, và cho những ngày mưa bụi giăng đầy từ Văn Thánh, Thiên Mụ, xuống Kim Long về Bạch Hổ, qua Hoàng Cung của một thời tựa như câu thơ “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo”…

Mưa bụi nhạt mờ trên giòng sông Hương, trôi về  Đập Đá, Vỹ Dạ. Dòng sông âm thầm lặng lẽ như đời người dân lành Huế, với bao nhiêu đổi thay bao nhiêu nghịch cảnh của một thời chính chiến tao loạn, vẫn cúi đầu chấp nhận số phận nghiệt ngã.

Rồi khi đang ở lính được phép về Huế, lang thang qua trường Đồng Khánh ngang bến đò Thừa Phủ vào buổi chiều tan học, khi mà “Áo em trắng quá nhìn không ra”, chạnh lòng nhớ về ai đó ngày xưa, lòng ngẩn ngơ, man mác mộng mơ theo vài vần thơ Quang Dũng:

   Hồn lính vương qua vài sợi tóc

   Tôi thương mà em đâu có hay!

Đó là Huế yêu dấu của tôi. Một nửa quãng đời tôi sống và lớn lên từ Huế. Bây giờ tháng năm xa cách, thật nhớ không nguôi nhớ vô cùng…

 Nhớ lại Mậu Thân 1968, sau 22 ngày bị VC chiếm giữ, 22 ngày chìm trong địa ngục, đến ngày thứ 26 thì Huế hoàn toàn được giải thoát bởi bàn tay và xương máu người lính Việt Nam Cộng Hòa.

Và sau tai ương thảm khốc gây ra bởi đạo quân phương bắc và nhóm nằm vùng địa phương, Huế còn lại gì? Thân thuộc, gia đình, bà con xa láng giềng gần nơi đâu? Bao nhiêu mất mát chia lìa, bao nhiêu tống biệt sinh ly, bao nhiêu ngậm ngùi xót xa cam chịu?

Sau Mậu Thân, Huế cổ kính mộng mơ chỉ còn lại là những đống gạch vụn đổ nát, các bức tường loang lổ, mà lòng thì người tan nát âu lo với những giải khăn sô bất tận kéo dài đến các nghĩa trang với mồ chôn tập thể, trắng xóa thành phố đổ nát điêu tàn.

Việt Cộng tràn vào Huế vào khuya ngày mồng một, rạng ngày mồng hai Tết Mậu Thân, đó là thời khắc oan nghiệt mà không người dân Huế nào quên được. Sau 22 ngày tàn sát dân lành, phá nát di tích lịch sử đền đài lăng tẩm, thì khuya ngày 22/2/1968, bọn chúng bắt đầu chạy trốn khỏi Huế. Khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tiêu diệt được bọn chúng, thì Huế còn lại là một nghĩa trang đau thương cùng cực với 5327 nạn nhân bị chôn sống chôn chết, và 1200 người mất tích cho mãi đến bây giờ cũng không biết thân xác họ trôi dạt phương nào.

Huế điêu tàn đổ nát với đầy rẫy xác người. Từ đường Lê Lợi đến đường Nguyễn Huệ, từ trường Thiên Hựu, vùng Dòng Chúa Cứu Thế, kéo về đường Duy Tân, qua đường Lý Thường Kiệt, Trần Cao Vân, khu Tòa Đại Biểu, khu Tòa Hành Chánh Tỉnh, bệnh viện Trung Ương Huế, khu Bưu Điện, Ngân Khố, tất cả bị tàn phá nặng nề. Đâu đâu cũng xác người, bên vệ đường, trong lùm cây bụi cỏ, “trên nóc nhà thành phố, trên con đường quanh co”. Rồi xác người bắt đầu sình thối và rữa nát trên khắp thành phố tan hoang.

Dòng sông An Cựu nắng đục mưa trong có 6 cây cầu bắc ngang. Cầu An Cựu nối liền quốc lộ I ra Tỉnh Quảng Trị đã bị phá sập hoàn toàn, cầu Kho Rèn, cầu Phủ Cam, cầu Bến Ngự, 3 cây cầu loang lổ vết đạn pháo binh, hư hại đến hơn 70%, không thể sử dụng, chỉ còn cầu Nam Giao nối liền thành phố lên vùng Từ Đàm Nam Giao, và cầu Ga nối liên thành phố lên ga tàu lửa Huế -Đà Nẵng, Huế -Quảng Trị, là tương đối còn có thể tạm dùng được. Còn cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp ngay giữa lòng thành phố Huế chỉ còn lại năm vài, một đầu vài kia đã chìm xuống  dòng sông lạnh. Đối với bất kỳ ai mà đã sinh ra và lớn lên tại Huế, thì cầu Tràng Tiền là niềm hãnh diện, là niềm vui nỗi buồn, là một phần đời khó quên của người Huế. Chiếc cầu là một chứng nhận thầm lặng của lịch sử, đã biết bao nhiêu đổi thay của nhiều triều đại, đã chứng kiến những thăng trầm những biến động đau thương mà tổ quốc và dân tộc đã phải còng lưng gánh vác. Trong lòng người Huế, chiếc cầu là một bảo vật không thể gãy được, vì đó là tình yêu của Cố Đô, là biểu tượng của người dân xứ Huế: thầm lặng, chịu đựng và nhẫn nại đối đầu với mọi biến cố khốc liệt. Cầu Tràng Tiền bắc ngang dòng sông Hương là hình ảnh sâu đậm không bao giờ nhạt phai trong lòng những người Huế tha hương như chúng tôi. Mỗi khí nhớ đến cầu Tràng Tiền, lại thổn thức nghẹn ngào, lại nhớ da diết, nhớ cuống quít, lòng bỗng muốn tìm về lại chốn cũ quê xưa, nơi có “cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp”, nơi đó chính là Huế dấu yêu ngàn đời.

Có thể nói: sông Hương, núi Ngự, cầu Tràng Tiền, và người Huế, bốn nhưng mà một, thiếu một thì lòng dạ ngẩn ngơ…

Cầu Tràng Tiền được khởi công xây cất từ tháng 5 năm 1889, năm Thành Thái thứ 9 và tháng 10 năm 1890 thì hoàn tất, với tổn phí là 800,000 Fr, do công ty Eiffel của Pháp xây cất. Tính đến nay, năm 2010 cây cầu đã được 120 tuổi đời. Lúc khánh thành, cây cầu được mang tên là Thành Thái. Sau bao thăng trầm của lịch sử và của Huế, cây cầu được đổi tên là cầu Tràng Tiền và mang tên ấy cho đến ngày nay. Tràng Tiền tên thật đơn giản, vì cây cầu được xây tại vùng Phú Xuân, Thuận Hóa, nơi mà các đời Chúa Nguyễn đặt xưởng đúc tiền. Năm 1946, khi quân đội Pháp tấn công và tái chiếm Huế, Việt Minh rút khỏi thành phố, nhận lệnh của Hồ Chí Minh thi hành kế hoạch “tiêu thổ kháng chiến”, bọn cộng phỉ chúng giựt sập một vài của cầu Tràng Tiền. Lần thứ hai năm Mậu Thân 1968 chính bọn chúng lại giựt sập cây cầu lần nữa. Huế trong những ngày tháng tạm yên bình không tiếng súng luôn có những câu hò đối đáp vang vọng trên dòng sông Hương. Vào những đêm khuya trăng sáng, ánh trăng và giọng hò trải dài từ Linh Mụ, xuống Kim Long, ngang qua  Bạch Hổ, xuôi về Phú văn Lâu, Hoàng Cung, qua cầu Tràng Tiền trôi về Thọ Lộc, Vỹ Dạ. Tiếng hò trầm buồn trong đêm trăng thanh vắng nghe như lời ta thán não nuột.

Câu hò đối đi:

Cầu Tràng Tiền bấy nhiêu năm qua lại

Kể từ đời Thành Thái đến nay

Chạnh lòng biết mấy ai ơi

Việc chi nên nỗi dang tay giựt cầu.

Câu hò đáp lại:

Lắm chuyện ly kỳ hỏi làm chi cho tối dạ

Nhịp cầu nghiêng ngã chưa lạ anh ơi

Điện Cần Chánh họ đút họ chơi

Khói bay nghi ngút tận trời anh thấy không

(Ưng Bình Thúc Dạ Thị)

Khu Quận II, trung tâm thương mại Huế lại càng điêu tàn và tang thương hơn. Dãy phố nối dài từ bến xe Nguyễn Hoàng xuống đến đường Trần Hưng Đạo, qua đường Phan Bội Châu, đường Hàng Bè, đến khu Gia Hội đường Chi Lăng, khu Trung Bộ, đường Bạch Đằng, đến tận trường trung học Gia Hội, qua khu Bãi Dâu, nhiều cửa tiệm đã sập. Nhiều cửa hàng có đến hằng ngàn vết đạn đầy những xác người và những mồ chôn tập thể.

Cầu Trường Tiền  đã  gãy một nhịp, nhưng dân Huế  vẫn cố bồng bế nhau vượt Hương Giang chạy về nam trốn cộng sản

Cộng quân giựt sập cầu vào khoảng 11:30 khuya ngày mồng 9 Tết Mậu Thân. Cầu đứt đoạn nhưng lòng người không đứt

Trở vào Quận I thành nội Huế, đây là nơi trong 22 ngày trận chiến xảy ra nặng nề nhất. Bị quân lực VNCH vây chặt, cộng quân không còn đường rút lui nên phải cố phá vòng vây của Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam Cộng Hòa, Nhảy Dù, Sư Đoàn I Bộ Binh, và tất nhiên dẫn đến điêu tàn và thiệt hại nhân mạng nhiều nhất. 

Thành nội Huế với những cửa thành: Thượng Tứ, Chánh Tây, Nhà Đồ, Đông Ba, Cửa Trài, khu Kỳ Đài tất cả đều bị tàn phá sụp đổ nặng nề, có nơi không còn viên gạch nào chồng lên viên đá nào. Khu vực Tây Linh, Tây Lộc, đường Hòa Bình, Đinh Bộ Lĩnh cửa Thượng Tứ, cửa Đông Ba tất cả điêu tàn sụp đổ, xác người sình thối. Tang thương và đau đớn nhất là khu vực Đại Nội, Tử Cấm Thành, một di tích lịch sử vết tích của triều đại nhà Nguyễn đã bị phá hủy nặng nề.

Hơn 200 năm trước dưới triều Vua Minh Mạng, bà Huyện Thanh Quan hoài vọng nhà Lê đã viết trong bài “Thăng Long Thành Hoài Cổ”:

   Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

  Nền cũ lâu đài bóng tịch dương

  Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt

  Nước còn cau mặt với tang thương.  

Thì năm 1968 cố đô Huế, Đại Nội, Tử Cấm Thành còn điêu tàn, tang thương và rùng rợn khủng khiếp hơn Thăng Long ngày xưa ngàn lần.

 Và trong những ngày kinh hoàng cơ cực của Mậu Thân 1968, dân chúng Huế không còn chỗ nào nương náu hơn là cũng chính thành phố điêu tàn đổ nát đầy dẫy xác người đã bốc mùi đã thối rữa này. Tất cả các trường Quốc Học, Đồng Khánh, Kiểu Mẫu, Lê Lợi, Thiên Hựu, Thượng Tứ, Hàm Nghi, Dòng Chúa Cứu Thế, nhà thờ Phủ Cam đều biến thành trại tỵ nạn với hằng ngàn người tá túc trong một chỗ với phương tiện vệ sinh hầu như bị ứ tắt hôi thối.

 Đàn bà, trẻ thơ, ông già, bà lão, họ kinh hoàng thất thần đói khát, ôm nhau để cùng chết cùng sống trong những giờ phút bi thương đó. Khổ nạn đã vút tận trời xanh, cùng cực đã xuống tận đáy sâu, kể sao cho hết viết sao cho cùng. Ôi! Huế đau thương Huế đọa đày, Huế địa ngục trần gian có thật của năm Mậu Thân  1968.

Và những ngày tháng kể tiếp, Huế trong cảnh điêu tàn phải đối diện với tang tóc chia lìa vì số nhân mạng của tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế bị thảm sát quá lớn. Có thể nói hầu như không có gia đinh nào không có thân nhân bị Việt Cộng sát hại hoặc bắt đi. Vợ mất chồng, con mất cha, anh em mất nhau, bạn gần, bạn xa, hàng xóm láng giềng tự nhiên không bao giờ thấy trở lại.

 Huế sống trong chút hy vọng mong manh, và niềm đau đớn tận cùng. Mọi người đã sống trong khắc khoải với hy vọng người thân trở về, và trong nghẹn ngào đau khổ khi tìm thấy xác của thân nhân nằm chết co quắp bên vệ đường Lê Lợi, Duy Tân, Nguyễn Huệ, Trần Hưng Đạo, Chi Lăng, Nhà Bè, Đinh Bộ Lĩnh, Hòa Bình, ngã tư Anh Danh, miếu Âm Hồn, hoặc chết tức tưởi trong lùm cây bụi cỏ, dưới hố sâu hầm cạn, tại trường Trung học Gia Hội, Bãi Dâu, tại cửa Đông Ba, Thượng Tứ Nhà Đồ, bên bờ khe vực thẳm, dọc theo Khe Đá Mài, Khe Trái, Khe Lụ, tại vùng Lăng Xá Bàu, Lăng xá Cồn v.v. Và như Trần Tế  Xương đã viết: “Bừng con mắt dậy, ngỡ mình chiêm bao”.

Quả đúng, buổi sáng thức giấc chợt thấy thành phố phủ một màu tang trắng, thật như một giấc chiêm bao! Hằng đoàn người khăn tang áo chế, theo sau hằng trăm cỗ quan tài, nghẹn ngào chậm bước dọc cầu Tràng Tiền, theo đường Lê Lợi lên nghĩa trang Ba Đồn cạnh đàn Nam Giao, nơi mồ chôn tập thể của hàng ngàn nạn nhân vô tội bị Việt Cộng sát hại.

Còn gì đau thương hơn, hỡi trời hỡi đất, hỡi sông Hương núi Ngự, hỡi cung miếu triều xưa, hỡi hồn thiêng sống núi, hỡi anh linh tiền nhân, sao nỡ đọa dày dân tộc đến tận cùng khổ đau.

Có thể là một nghiệp báo chăng? Có thể ngày xưa trên đường Nam tiến mở mang bờ cõi, các vị tiên đế đã làm điều gì lỗi đạo với nhân sinh, để ngày nay con cháu phải trả món nợ oan khiên này? Và tại sao lại phải trả bằng chính bàn tay của người Việt giết một cách tàn bạo dã man người Việt? Phải chăng chủ nghĩa cộng sản đã biến những kẻ theo nó không còn  là người? Vâng, bọn cộng phỉ chúng đã thành ác thú.

Huế trong tình trạng gạo thiếu, nhu yếu phẩm thiếu, điện thiếu, nước thiếu. Dân Huế quằn quại cơ cực trong các nơi tạm trú, xác người sình thối trong thành phố, và hầu như các trại tỵ nạn không nơi nào có nhà vệ sinh cho đồng bào, vì thế không một trại ty nạn nào mà không bốc mùi hôi thối. 

Nguy cơ về những cơn bệnh truyền nhiễm có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Những ngày này thời tiết lại quá xấu, trời thật thấp phủ một màu xám ngắt. Từng cơn mưa phùn trải dài qua thành phố ngày này sang ngày khác. Dưới cái lạnh cắt da, ông già, bà lão, trẻ thơ, run rẩy trong chiếc áo mong manh, họ đang bị đói rét trong đổ nát điêu tàn, trong đau thương quằn quại. Huế đã nằm bất động như người bệnh bán thân bất toại tưởng chừng như không bao giờ gượng dậy nổi.

Một số người Huế đã nói: “Huế chỉ để mà nhớ chứ không để mà ở”, và họ đã bỏ Huế ra đi….

Điều gì hãi hùng đã làm họ vĩnh viễn xa lìa Huế?

***

Categories: Uncategorized

0 Comments

Leave a Reply

Avatar placeholder

Your email address will not be published.